QUYỀN IM LẶNG CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO
QUYỀN
IM LẶNG CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO
Quyền im lặng của bị
can, bị cáo không còn xa lạ trong tố tụng hình sự của nhiều nước trên thế giới.
Nhưng tại Việt Nam, quyền này mới chính thức được thừa nhận từ khi Bộ luật Tố tụng
Hình sự 2015 có hiệu lực.
“Quyền im lặng” (hay gọi
là quyền Miranda) bắt nguồn từ một án lệ ở Mỹ.
Quyền này được giải
thích là: “Anh có quyền giữ im lặng và từ
chối trả lời câu hỏi. Bất cứ điều gì anh nói cũng sẽ được dùng để chống lại anh
trước tòa”.
Nguyên tắc “quyền
Miranda” được pháp luật tố tụng hình sự của nhiều nước trên thế giới ghi nhận.
Hiến pháp Nhật Bản quy định “không ai bị
giam giữ nếu không được thông báo tội trạng và không có luật sư bênh vực”;
quyền im lặng ở Đức được đảm bảo rất rộng: Bị
cáo có quyền không khai báo, không nhận tội từ khi bị tình nghi đến khi bị xét
xử.
Tại Bộ luật Tố tụng
Hình sự 2015 (có hiệu lực từ ngày 1/1/2018), lần đầu tiên quyền im lặng của bị
can, bị cáo được ghi nhận; tuy nhiên, Bộ luật không ghi nhận trực tiếp mà thể
hiện gián tiếp qua một số điều luật.
Cụ thể, theo quy định tại
điểm d khoản 2 Điều 60 và điểm h khoản 2
Điều 61 Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị
can, bị cáo có quyền trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa
ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội
Có thể thấy, bị can, bị
cáo có quyền tự chủ trong việc khai báo; “trình bày lời khai” là quyền của bị
can, bị cáo mà không phải là nghĩa vụ bắt buộc.
Theo đó, bị can, bị cáo
có thể trình bày lời khai hoặc không. Việc không trình bày lời khai thể hiện ở
việc bị can, bị cáo im lặng trước cơ quan tiến hành tố tụng. Khi bị can, bị cáo im lặng, cơ quan tiến
hành tố tụng không có quyền ép buộc họ phải khai báo bằng các biện pháp không hợp
pháp.
Như vậy, có thể hiểu rằng
bị can, bị cáo hoàn toàn có quyền im lặng. Việc
bị can, bị cáo không trả lời cơ quan, người tiến hành tố tụng những điều bất lợi
cho bản thân sẽ không bị coi là tình tiết tăng nặng.
Bình luận