NGHĨA VỤ CHỨNG MINH TRONG VỤ ÁN DÂN SỰ
NGHĨA
VỤ CHỨNG MINH TRONG VỤ ÁN DÂN SỰ
Một trong những quy định
của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS năm 2015) nhằm bảo đảm sự bình đẳng
về địa vị pháp lý giữa các chủ thể trong tố tụng dân sự đó là cho phép các
đương sự có quyền yêu cầu tòa án bảo vệ quyền lợi dân sự hợp pháp của mình. Khi
các đương sự có yêu cầu thì đều phải chứng minh yêu cầu đó là có căn cứ và hợp
pháp.
Nhằm tôn trọng và bảo vệ
quyền con người, Điều 91 BLTTDS năm 2015 quy định, đương sự có yêu cầu Tòa án bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa
án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp, trừ
các trường hợp sau đây:
–
Người tiêu dùng khởi kiện không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của tổ chức,
cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch
vụ bị kiện có nghĩa vụ chứng minh mình không có lỗi gây ra thiệt hại theo quy định
của Luật bảo vệ người tiêu dùng.
– Đương sự là người lao động trong vụ án lao
động không cung cấp, giao nộp được cho tòa án tài liệu, chứng cứ vì lý do tài
liệu, chứng cứ đó đang do người sử dụng lao động quản lý, lưu giữ thì người sử
dụng lao động có trách nhiệm cung cấp, giao nộp tài liệu chứng cứ đó cho tòa
án.
Người lao động khởi kiện
vụ án đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động thuộc trường hợp người sử dụng lao
động không được thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao đông hoặc trường
hợp không được xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động theo quy định của
pháp luật thì nghĩa vụ chứng minh thuộc về người sử dụng lao động.
Các trường hợp pháp luật có quy định khác về
nghĩa vụ chứng minh.
Đương sự phản đối yêu cầu
của người khác đối với mình phải thể hiện bằng văn bản và phải thu thập, cung cấp,
giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho sự phản đối đó.
Cơ quan, tổ chức, cá
nhân khởi kiện để bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước hoặc yêu cầu
Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác phải thu thập, cung cấp,
giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho việc khởi kiện, yêu cầu
của mình là có căn cứ và hợp pháp.
Tổ chức xã hội tham gia
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của tổ chức,
cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ theo quy định của Luật bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng.
Đương sự có nghĩa vụ
đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ
chứng cứ thì Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập
được có trong hồ sơ vụ việc.
Những tình, sự kiện không phải chứng minh
trong tố tụng dân sự
Theo Điều 92 BLTTDS năm 2015 thì những tình
tiết, sự kiện sau đây không phải chứng minh trong tố tụng dân sự:
– Những tình tiết, sự kiện rõ ràng mà mọi
người đều biết và được Tòa án thừa nhận;
– Những tình tiết, sự kiện đã được xác định
trong bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật hoặc quyết định của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã có hiệu lực pháp luật;
– Những tình tiết, sự kiện đã được ghi trong
văn bản và được công chứng, chứng thực hợp pháp; trường hợp có dấu hiệu nghi ngờ
tính khách quan của những tình tiết, sự kiện này hoặc tính khách quan của văn bản
công chứng, chứng thực thì Thẩm phán có thể yêu cầu đương sự, cơ quan, tổ chức
công chứng, chứng thực xuất trình bản gốc, bản chính.
Một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối
những tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản, kết luận của cơ quan chuyên môn mà
bên đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đó không phải chứng minh.
Đương sự có người đại diện tham gia tố tụng
thì sự thừa nhận của người đại diện được coi là sự thừa nhận của đương sự nếu
không vượt quá phạm vi đại diện.
Xử lý hành vi cản trở hoạt động xác minh,
thu thập chứng cứ của người tiến hành tố tụng
Điều 489 BLTTDS năm 2015 cũng quy định rõ về
việc xử lý hành vi cản trở hoạt động xác minh, thu thập chứng cứ của người tiến
hành tố tụng
Người nào có một trong các hành vi sau đây
thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà có thể bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành
chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật:
– Làm giả, hủy hoại chứng cứ quan trọng gây
trở ngại cho việc giải quyết vụ án của Tòa án;
– Từ chối khai báo, khai báo gian dối hoặc
cung cấp tài liệu sai sự thật khi làm chứng;
– Từ chối kết luận giám định hoặc từ chối
cung cấp tài liệu mà không có lý do chính đáng, kết luận giám định sai sự thật;
– Cố ý dịch sai sự thật;
– Không cử người tham gia Hội đồng định giá
theo yêu cầu của Tòa án mà không có lý do chính đáng; không tham gia thực hiện
nhiệm vụ của Hội đồng định giá mà không có lý do chính đáng;
– Cản trở người tiến hành tố tụng tiến hành
xem xét thẩm định tại chỗ, định giá, giám định hoặc xác minh, thu thập chứng cứ
khác do Bộ luật Tố tụng dân sự quy định;
– Lừa dối, mua chuộc, đe dọa, cưỡng ép, sử dụng
vũ lực nhằm ngăn cản người làm chứng ra làm chứng hoặc buộc người khác ra làm
chứng gian dối;
– Lừa dối, mua chuộc, đe dọa, cưỡng ép, sử dụng
vũ lực nhằm ngăn cản người giám định thực hiện nhiệm vụ hoặc buộc người giám định
kết luận sai với sự thật khách quan;
– Lừa dối, mua chuộc, đe dọa, cưỡng ép, sử dụng
vũ lực nhằm ngăn cản người phiên dịch thực hiện nhiệm vụ hoặc buộc người phiên
dịch dịch không trung thực, không khách quan, không đúng nghĩa.
Bình luận