ĐỒNG PHẠM LÀ GÌ
ĐỒNG PHẠM LÀ
GÌ ?
Tội
phạm có thể do một người thực hiện nhưng cũng có thể do nhiều người cùng thực
hiện. Trường hợp có nhiều người cùng thực hiện một cách cố ý được gọi là đồng
phạm. Trong luật hình sự, đồng phạm được coi là hình thức phạm tội đặc biệt. Cơ
sở pháp lý và phạm vi TNHS trong đồng phạm có điểm khác so với trường hợp phạm
tội riêng lẻ.
Khoản
1 Điều 17 Bộ luật hình sự năm 2015 sđ bs năm 2017 quy định: “ Đồng phạm là trường hợp có hai người trở
lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm”.
Những dấu hiệu của đồng phạm:
Theo
đó, đồng phạm đòi hỏi có những dấu hiệu sau:
1 Về mặt khách quan: có 2 dấu hiệu: “có 2 người trở lên” và “cùng thực hiện tội phạm”
-Đồng
phạm đòi hỏi có ít nhất 2 người và hai người này phải đủ điều kiện của chủ thể của
tội phạm. Đó là điều kiện có năng lực TNHS (có năng lực nhận thức và năng lực
điều khiển hành vi và đủ tuổi chịu TNHS)
-Cùng
thực hiện tội phạm có nghĩa là người đồng phạm phải tham gia vào tội phạm với một
trong bốn hành vi sau:
·
Hành vi thực hiện
tội phạm (thực hiện hành vi được mô tả trong CTTP). Người có hành vi này được gọi
là người thực hành
·
Hành vi tổ chức thực
hiện tội phạm (tổ chức thực hiện hành vi mô tả trong CTTP). Người có hành vi
này được gọi là người tổ chức.
·
Hành vi giúp sức
người khác thực hiện tội phạm (xúi giục người khác thực hiện hành vi được mô tả
trong CTTP). Người thực hiện hành vi này được gọi là người giúp sức.
Trong
vụ đồng phạm có thể có đủ bốn loại hành
vi tham gia nhưng không dòi hỏi nhất thiết phải như vậy và có thể chỉ có một loại hành vi tham gia.
Người đông phạm có thể tham gia với một
loại hành vi hoặc có thể tham gia với
nhiều loại hành vi khác nhau. Họ có
thể tham gia từ đầu hoặc có thể tham
gia khi tội phạm đã xảy ra nhưng chưa kết thúc.
2 Về mặt chủ quan:
Đồng
phạm đòi hỏi những người cùng thực hiện tội phạm đều có lỗi cố ý. Ngoài ra, với
những tội có dấu hiệu mục dích phạm tội là bắt buộc, đồng phạm đòi hỏi những
người cùng thực hiện phải có cùng mục đích phạm tội đó.
a.Dấu hiệu lỗi:
Khi
thực hiện hành vi phạm tội, mỗi đồng phạm không chỉ cố ý với hành vi phạm tội của
mình mà còn biết và mong muốn sự cố ý tham gia của những người đồng phạm khác.
Lỗi cố ý trong đồng phạm được thể hiện như sau:
·
Về lý trí : Mỗi người biết hành vi của mình gây hại cho
xã hội và biết người khác cũng có hành vi như vậy. Nễu chỉ biết hành vi của
mình gay hại cho xã hội mà không biết hành vi của người khác cũng như vậy thì
chưa thỏa mãn dấu hiệu lỗi cố ý trong đồng phạm và như vậy là không có đồng phạm.
Ví dụ: Khi mượn xe của B để dùng làm
phương tiện cho việc trộm cắp trong kho của một công ty, A đã nói dối là cần xe
vào việc hợp pháp. B biết ý định của A nhưng do thù tức thủ kho nên đã vờ vô
tình cho mượn.Trong vụ án này, A chỉ biết mình có hành vi trộm cắp mà không biết
B có hành vi giúp sức cho mình. Do vậy, A và B không đồng phạm với nhau. Về
lý trí, mỗi người đồng phạm còn thấy trước hậu quả thiệt hại của tội phạm mà họ
thực hiện.
·
Về ý chí: Những người đồng phạm cũng mong muốn có hoạt
động chung và cùng mong muốn hoặc cùng có ý thức để mặc cho hậu quả thiệt hại xảy
ra (nghĩa là có hình thức lỗi cố ý gián tiếp). Những trường hợp không mong muốn
có sự liên kết hành vi để cùng gây ra hậu quả thiệt hại như trường hợp nhiều
người cùn gmusc trộm dầu trong bể chứa của cơ quan nhưng giữa họ không có sự rủ
rê nhau là trường hợp phạm tội riêng lẻ. Khi các hậu quả thiệt hại mà những người
có hành vi có tính gây thiệt hại cho xã hội mong muốn không đồng nhất với nhau
thì cũng chỉ là trường hợp phạm tội riêng lẻ .
b.Dấu hiệu mục đích phạm tội:
Ngoài
hai dấu hiệu cùng thực hiện và cùng cố ý, đồng phạm còn đòi hỏi dấu hiệu cùng mục
đích phạm tội trong trường hợp đồng phạm những tội có mục đích phạm tội là dấu
hiệu được mô tả trong CTTP. Ví dụ: Đồng
phạm những tội thuộc Chương các tội xâm phạm an ninh quốc gia. Được coi là cùng
mục đích khi những người tham gia đều có chung mục đích đượ phản ánh trong CTTP
hoặc biết rõ và tiếp nhận mục đích đó. Trường hợp người chở thuê cho những người
khác trốn đi nước ngoài , mặc dù đã biết rõ những người này có cùng mục đích chống
lại chính quyền nhân dân là ví dụ về trường biết rõ và tiếp nhận mục dích của
nhau. Trong trường hợp này người chở thuê bị coi là người đồng phạm (người giúp
sức) về tội phạm được quy định tại điều 121 BLHS mặc dù họ không có mục đích chống
lại chính quyền nhân dân .
Nếu
không thỏa mãn dấu hiệu cùng mục đích sẽ không có đồng phạm. Trong trường hợp
này, những người tham gia sẽ chịu TNHS đọc lập với nhau. Ví dụ: A thuê B giết
người với mục đích là chống lại chính quyền nhân dân nhưng B không biết mục
đích đó. Trong trường hợp này khống có đồng phạm về tội khủng bố nhằm chống lại
chính quyền nhân dân.
Bình luận