BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Biện pháp ngăn chặn có vai trò quan trọng và cần thiết
trong việc hỗ trợ các cơ quan điều tra trong quá trình giải quyết vụ việc. Vậy
các biện pháp ấy là gì ? Được quy định trong các văn bản pháp luật như thế nào ?
Luật Bảo Tín sẽ cung cấp những thông tin hữu ích về vấn đề này thông qua bài viết
sau đây:
1.
Biện pháp ngăn chặn là gì?
Biện pháp ngăn chặn được
hiểu là các biện pháp mang tính chất cưỡng chế về mặt tố tụng áp dụng khi có đủ
căn cứ đối với bị can, bị cáo hoặc người chưa bị khởi tố trong trường hợp khẩn
cấp hoặc phạm tội quả tang, để ngăn chặn những hành vi nguy hiểm của họ trong
xã hội, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành động
gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
Biện pháp ngăn chặn được
quy định trong bộ luật tố tụng hình sự gồm:
+ Bắt, giữ người: Bắt
người phạm tội quả tang; bắt người đang bị truy nã; bắt bị can, bị cáo để tạm
giam; giữ người trong trường hợp khản cấp.
+ Tạm giữ.
+ Tạm giam.
+ Cấm đi khỏi nơi cư
trú.
+ Bảo lĩnh.
+ Đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm.
+ Cấm đi khỏi nơi cư trú.
+ Tạm hoãn xuất cảnh.
2.
Mục đích của các biện pháp ngăn chặn:
Việc thực hiện các biện
pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự nhằm các mục đích sau:
+ Để kịp thời ngăn chặn
tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều
tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội;
+ Bảo đảm thi hành án.
3.
Đối tượng có thẩm quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn
Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Toà án trong phạm vi thẩm quyền tố tụng của mình hoặc người có thẩm
quyền theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự có quyền áp dụng một trong số
các biện pháp ngăn chặn theo quy định của pháp luật.
4.
Các biện pháp ngăn chặn theo Bộ luật tố tụng hình sự 2015
4.1
Biện pháp bắt, giữ người:
- Giữ người trong trường
hợp khẩn cấp (quy định tại Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015): giữ người
khi có căn cứ xác định người đó đang chuẩn bị phạm tội rất hoặc đặc biết nghiêm
trọng; khi có căn cứ xác định đúng người đã thực hiện tội phạm mà xét tháy có
thể sẽ bỏ trốn; khi có dấu vết của người thực hiện tội phạm tại nơi ở, nơi làm
việc hay trên phương tiện mà xét thấy cầng ngăn chặn việc bỏ trốn hoặc tiêu hủy
chứng cứ
-Bắt người phạm tội quả
tang (quy định tại Điều 111 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015): là bắt người
đang hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm hoặc bị đuổi bắt thì ai cũng có quyền
bắt và giải đến cơ quan có thẩm quyền.
- Bắt người đang bị
truy nã (quy định tại Điều 112 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015): là bắt người
đang bị truy nã, ai cũng có quyền bắt và giải ngay đến cơ quan có thẩm quyền.
- Băt bị can, bị cáo để tạm giam (quy định tại Điều
113 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015): chỉ cơ quan tiến hành tố tụng mới có quyền bắt; khi bắt phải có mặt của đại
diện chính quyền địa phương hoặc đại diện nơi làm việc/ học tập; không được bắt
vào ban đêm trừ bắt người phạm tội quả tang hoặc bắt người đang bị truy nã
Phải có biên bản về việc bắt người và phải thông báo
ngay cho gia đình người đã bị bắt, chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ
quan, tổ chức nơi người đó cư trú hoặc làm việc biết. Sau khi nhận người bị bắt,
cơ quan điều tra phải thực hiện lấy lời khai ngay và trong thời hạn 24 giờ phải
ra quyết định tạm giữ hoặc tả tự do cho người bị bắt. Đối với người bị truy nã
thì sau khi lấy lời khai, cơ quan điều tra cần phải thông báo ngay cho cơ quan
đã ra lệnh truy nã và giao ngay người đó cho trại tạm giam nơi gần nhất để giam
giữ tạm thời trước khi cơ quan ra lệnh truy nã đến nhận.
4.2 Biện pháp tạm giữ (quy định tại Điều 117 Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2015):
Biện pháp tạm giữ áp dụng với người bị giữ trong trường
hợp khẩn cấp, bị bắt trong trong trường hợp phạm tội quả tang, người phạm tội tự
thú, đầu thú hoặc với người bị bắt khi đang bị truy nã.
Tổng thời hạn tạm giữ
(bao gồm thời hạn tạm giữ thông thường và thời hạn gia hạn tạm giữ) là 9 ngày.
Thời gian tạm giữ được trừ vào thời hạn tạm giam, một ngày tạm giữ được tính bằng
một ngày tạm giam. Trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì
người bị tạm giữ phải được trả tự do ngay.
4.3
Biện pháp tạm giam (quy định Điều 119 Bộ luật Tố tụng hình
sự năm 2015):
Biện pháp tạm giam áp dụng đối bị can, bị cáo về tội
đặc biệt nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt
tù trên 02 năm khi: đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm; không
có nơi cư trú hoặ không xác định được lý lịch; bỏ trốn và bị bắt theo quyết định
truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn; tiếp tục hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội; có
hành vi tác động khiến người khác khai báo gian dối hoặc cung cấp tài liệu sai
sự thật, tiêu hủy, giả mạo chứng cứ , tài liệu của vụ án, tẩu tán tài sản , đe doa, trả thù
người làm chứng , bị hại, người tố giác và người thân của những người này; có
thể áp dụng với với bị can bị cáo về tội ít nghiêm trọng hay với phụ nữ có
thai, người già yếu, bệnh nặng nếu tiếp tục phạm tội, bỏ trốn,…
Tạm giam là biện pháp
cách ly bị can, bị cáo với xã hội trong thời gian nhất định nhằm ngăn chặn hành
vi trốn tránh pháp luật, cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp
tục phạm tội của bị can, bị cáo, bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử được
thuận lợi.
Việc tạm giam phải có lệnh
của người có thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam. Lệnh tạm giam của
Trưởng công an, Phó trưởng công an cấp huyện, Thủ trưởng, Phó Thủ tướng cơ quan
điều tra cấp tỉnh trở lên. Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp
trong quân đội nhân dân phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê duyệt trước khi
thi hành.
4.4
Biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú (quy định tại Điều 123
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015):
Biện pháp này chỉ áp dụng
đối với bị can, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng. Chính quyền xã, phường, thị trấn
nơi bị can, bị cáo cư trú có trách nhiệm quản lý, theo dõi họ. Bị can, bị cáo
vi phạm lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú sẽ bị áp dụng tạm giam nếu không vì lý do bất
khả kháng hay trở ngại khách quan mà được người ra lệnh cấm cấp giấy cho phép.
Biện pháp cấm đi khỏi
nơi cư trú là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do cơ quan điều tra, viện
kiểm sát, tòa án áp dụng để buộc bị can, bị cáo không được đi khỏi nơi cư trú của
mình và phải có mặt khi có giấy triệu tập.
Biện pháp này chỉ áp dụng
đối với bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, lần đầu, có nơi cư trú rõ
ràng, có thái độ khai báo thành khẩn, trong trường hợp bị can, bi cáo không bị
bắt để tạm giam hoặc đã bị tạm giam nhưng được co quan điều tra, viện kiểm sát,
tòa án cho tại ngoại khi có đủ cơ sở cho rằng họ sẽ không bỏ trốn, không gây cản
trở cho việc điều tra, truy tố và xét xử hoặc tiếp tục phạm tội.
4.5
Biện pháp bảo lĩnh (quy định tại Điều 121 Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2015):
Bảo lĩnh là biện pháp
ngăn chặn để thay thế biện pháp tạm giam, tùy thuộc vào tính chất, mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi.
Cơ quan, tổ chức có thể
nhận bảo lĩnh cho người của cơ quan, tổ chức mình nhưng phải có giấy cam đoan
và xác nhạn của người đứng đầu cơ quan, tổ chức. Bên cạnh đó, cá nhân cũng có thê
bảo lĩnh cho bị can, bị cáo nếu cá nhân đó đủ 18 tuổi, nhân thân tốt và có đủ
điều kiện kinh tế và quản lý người được bảo lĩnh và trong teuwowfng hợp nhày phải
có ít nhất 02 người, kèm theo giấy cam đoan có xác nhận của chính quyền hoặc của
cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc.
Bị can bị cáo cũng phải
làm giấy cam đoan và sẽ bị tạm giam nếu vi phạm nghĩa vụ cam đoan.
4.6
Biện pháp đặt tiền bảo đảm (quy định tại Điều 122 Bộ luật Tố
tụng năm 2015)
Biện pháp này là biện
pháp ngăn chặn để thay thế biện pháp tạm giam, tùy thuộc vào tính chất, mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi.
Bản thân bị can, bị cáo hoặc người thân thích cua họ
có thể đặt tiền để bảo đảm. Bị can, bị cáo được đặt tiền phải làm giấy cam
đoan. Nếu họ vi phạm cam đoan thì sẽ bị tạm giam và số tiền đạt sẽ bị tịch thu,
nộp ngân sách nhà nước.
5.
Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn
Theo bộ luật Bộ luật tố
tụng hình sự 2015, căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn bao gồm : ngăn chặn để kịp
thời ngăn chặn tội phạm, khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn
cho việc điều tra, truy tố, xét xử, khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp
tục phạm tội, khi cần để bảo đảm thi hành án
Việc áp dụng biện pháp
ngăn chặn phải do người có thẩm quyền quyết định trừ trường hợp bắt người phạm
tội quả tang hoặc đang bị truy nã và bảo đảm đúng các thủ tục theo quy định
pháp luật do bộ luật Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định. Khi tiến hành tố tụng,
cơ quan điều tra, viện kiểm soát và tòa án trong phạm vi trách nhiệm của mình
phải thường xuyên tiến hành thực hiện việc kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết
của những biện pháp ngăn chặn khi thấy không còn cần thiết hoặc có thể thay thế
bằng biện pháp ngăn chặn khác.
Bình luận